ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN Kỷ niệm 550 năm Danh xưng Quảng Nam (1471 – 2021)

Quảng Nam là tỉnh thuộc Duyên hải miền Trung có diện tích tự nhiên là 10.574,74 km2; nằm giữa trục giao thông Nam – Bắc về đường sắt, đường bộ, đường thủy, đường hàng không của cả nước và khu vực Đông Nam Á. Phía Bắc giáp thành phố Đà Nẵng và tỉnh Thừa Thiên Huế; phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi và Kon Tum; phía Tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; phía Đông giáp Biển Đông với chiều dài bờ biển 125km.

Toàn tỉnh có 18 huyện, thị xã, thành phố (2 thành phố, 1 thị xã, 6 huyện đồng bằng, 9 huyện miền núi); 241 xã, phường, thị trấn; 1.240 thôn, tổ dân phố. Tổng dân số tỉnh Quảng Nam tính đến ngày 31/12/2020 là 1.509.251 người; mật độ dân số 142 người/km2. Dân tộc thiểu số gần 142.000 người, chiếm 9,4% tổng dân số toàn tỉnh, gồm Cơ tu, Xơ Đăng, Gié Triêng, Cor…

  1. SỰ RA ĐỜI VÀ Ý NGHĨA CỦA DANH XƯNG QUẢNG NAM

Tháng 6 năm Tân Mão 1471, năm Hồng Đức thứ hai, vua Lê Thánh Tông thành lập (khai sáng) đạo Thừa tuyên Quảng Nam, trở thành thừa tuyên thứ 13 của quốc gia Đại Việt. Đạo Thừa tuyên Quảng Nam lúc này là vùng đất rộng lớn, từ Nam sông Thu Bồn đến Bắc đèo Cù Mông, tỉnh Bình Định ngày nay, gồm 3 phủ, 9 huyện: (1) Phủ Thăng Hoa gồm 3 huyện: Lê Giang, Hà Đông và Hy Giang (tương ứng với phần đất từ bờ nam sông Thu Bồn đến dốc Sỏi, địa giới tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Ngãi ngày nay); (2) Phủ Tư Nghĩa gồm 3 huyện: Nghĩa Sơn, Bình Sơn và Mộ Hoa (tương ứng với phần đất của tỉnh Quảng Ngãi ngày nay); (3) Phủ Hoài Nhơn gồm 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn (tương ứng với phần đất của tỉnh Bình Định ngày nay).

Trải qua 550 năm, Danh xưng Quảng Nam đã nhiều lần thay đổi tên gọi: Từ Đạo Thừa tuyên Quảng Nam đến Xứ Quảng Nam, Trấn Quảng Nam, Dinh Quảng Nam thời xa xưa, rồi Đặc khu Quảng Đà trong thời chiến tranh chống Mỹ, Quảng Nam – Đà Nẵng sau ngày thống nhất đất nước và trở lại Danh xưng Quảng Nam khi tỉnh được tái lập năm 1997.

Với Danh xưng Quảng Nam, Lê Thánh Tông – một vị vua anh minh, được xếp vào hàng bậc nhất trong các triều đại vua chúa Việt Nam, đã khẳng định chủ quyền lãnh thổ của Đại Việt đối với vùng đất này. Lê Thánh Tông đã có một sự lựa chọn, một định hướng mang tính chiến lược về tầm nhìn xa, xu thế phát triển, mang ý nghĩa quyết định vận mệnh của quốc gia Đại Việt. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà vị vua hiền nổi tiếng uyên thâm đã chọn hai chữ đầy ý nghĩa để đặt tên cho vùng đất mới: “Quảng” là mở rộng, “Nam” là về phương Nam.

Riêng nói về Minh quân Lê Thánh Tông, có thể khái quát một số nét cơ bản sau:

Với 37 năm trị vì (1460 – 1497), Lê Thánh Tông đã để lại những dấu ấn đậm nét trong việc coi trọng hiền tài, coi trí thức là vốn quý của xã hội. Để biểu dương, khuyến khích những người học giỏi, đỗ cao, vào năm Giáp Thìn (1484) tức năm Hồng Đức thứ 15, vua sai Thượng thư Bộ Lễ Quách Đình Bảo dựng mười tấm bia để ở nhà Thái học; trên đó khắc tên các Tiến sĩ thi đậu trong 10 khoa thi từ 1442 đến 1484. Từ đó thành lệ, các đời sau đều dựng bia Tiến sĩ ở Văn Miếu.

Nhà vua còn chọn các vị quan văn nổi tiếng như Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Đào Cử, Lương Thế Vinh, Đàm Văn Lễ… soạn những bài ý tứ sâu xa để khắc lên bia. Bài văn bia khoa Đại Bảo thứ ba (1442) do Thân Nhân Trung soạn có câu: “Hiền tài là nguyên khí của nước nhà. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và càng lên cao, nguyên khí suy thì thế nước hèn và ngày càng xuống thấp. Cho nên, các bậc thánh đế minh vương đời xưa, chẳng đời nào lại không chăm bón nhân tài, bồi đắp nguyên khí”. Nhà vua là nhà lãnh đạo năng động tài ba, có phương hướng chiến lược hợp thời, đã đưa đất nước Đại Việt trở nên hùng cường về quân sự, giàu mạnh về kinh tế.

Sau khi sắp xếp xong bộ máy nhà nước, cũng như các vua đầu triều Lê sơ, vua Lê Thánh Tông rất quan tâm đến hình luật. Tháng 11 năm Hồng Đức thứ 14 (1483), vua sai các đại thần thu thập các luật lệ, chiếu lệnh, phép tắc, văn bản của các đời vua trước để soạn thành bộ Quốc triều hình luật, còn gọi là Bộ luật Hồng Đức. Kể cả phần mà các vua thời Lê sau này bổ sung thêm thì Bộ luật Hồng Đức còn lại đến ngày nay gồm 722 điều, 13 chương được đóng thành 6 quyển. Đây một bộ luật khá hoàn chỉnh, rất tiến bộ;  có nhiều quy định nhằm bài trừ nạn tham nhũng, hối lộ, lãng phí của công, nạn ức hiếp dân lành và chú trọng đến việc bảo vệ quyền lợi của dân; trong đó có những điều bênh vực cho quyền lợi của người phụ nữ, còn có giá trị tác dụng cho các triều đại sau.

Dưới thời Vua Lê Thánh Tông, có nhiều quy định, hình thức rất tiến bộ, hợp lý về việc phát triển văn hóa, khai khẩn đất đai, khuyến nông, về tuyển chọn, sử dụng và quản lý quan lại, sử dụng người tài. Thời đại Minh quân Lê Thánh Tông, về văn quan, võ tướng có khá nhiều bậc hào kiệt, nho thần trí dũng, góp công to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước và cách đây gần tám mươi năm, năm 1942, trong bài diễn ca Lịch sử nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “… Vua hiền có Lê Thánh Tông…”…

  1. TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, CÁCH MẠNG, VĂN HÓA CỦA VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI QUẢNG NAM

Quảng Nam là một trong những vùng đất giàu truyền thống yêu nước, cách mạng, văn hóa, hiếu học, bản lĩnh và sáng tạo

 

Quảng Nam là vùng đất “đầu sóng ngọn gió”, “phiên dậu phía Nam” của Tổ quốc trong suốt thời kỳ mở cõi về phương Nam. Nguyễn Hoàng coi Quảng Nam là “đất yết hầu của miền Thuận Quảng”, là “đất dụng võ của người anh hùng”. Năm 1602, Nguyễn Hoàng cho lập dinh trấn tại Thanh Chiêm. Từ năm 1613, sau khi Nguyễn Hoàng mất, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên thay đã đẩy mạnh việc phát triển kinh tế, cải cách xã hội; ông cho lập nhiều hải cảng để đón thương thuyền nước ngoài ghé vào buôn bán. Tàu bè của các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Anh, Pháp thường xuyên cập bến Hội An để mua các loại sản vật của xứ Quảng, nhờ đó Hội An đã trở thành thương cảng quan trọng nhất của Đàng Trong.  Vào cuối thế kỷ XVII, từ cuộc du hành Quảng Nam của mình, Thích Đại Sán có viết về sự sầm uất và thịnh vượng của Hội An – Faifo: “Xa trông cách bờ, cột buồm như rừng tên xúm xít, hỏi ra mới biết đó là đoàn thuyền chở lương, đậu chờ gió tại cửa Hội An vậy… Hai bên bờ nhà cửa đông đúc, người đi đường xôn xao, kẻ gánh người gồng, người ta đã đi chợ sáng”. Sự giao thoa, hội nhập văn hóa ở Hội An đã làm cho đô thị thương cảng này có những nét riêng độc đáo, thể hiện qua các công trình kiến trúc, điêu khắc, phong tục tập quán… Trải qua thời gian và chiến tranh, Hội An vẫn còn giữ được những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể vốn có của mình. Với những giá trị độc đáo, đô thị cổ Hội An đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.

Đất Quảng cũng là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, với truyền thống hiếu học, Quảng Nam đã sản sinh ra nhiều người con ưu tú cho đất nước. Xứ Quảng Nam nổi tiếng là đất học với các danh hiệu để tiếng thơm muôn đời sau: “Ngũ phụng tề phi”, “Tứ hỗ”, “Tứ kiệt”, “Ngũ tử đăng khoa”… Những nhà yêu nước của thế kỷ trước như: Phạm Phú Thứ, Trần Cao Vân, Trần Văn Dư, Nguyễn Duy Hiệu, Hoàng Diệu, Trần Quý Cáp, Phan Bá Phiến, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Thành… là những tấm gương sáng về truyền thống hiếu học, yêu nước, đem tài năng, tâm huyết, cả tính mệnh của mình để phục vụ cho dân, cho nước. Truyền thống hiếu học vẫn tiếp tục được phát huy như: Nhiều học sinh, sinh viên của tỉnh đã đạt nhiều thành tích trong các kỳ thi trong nước và quốc tế; nhiều người được phong hàm giáo sư như Lê Trí Viễn, Huỳnh Lý, Lê Đình Kỵ, Nguyễn Văn Hạnh (văn học); Hoàng Châu Ký (nghệ thuật học); Hoàng Phê, Diệp Quang Ban (ngôn ngữ học); Hoàng Tụy, Nguyễn Chánh Tú (toán học); Nguyễn Tấn Quý (xây dựng); Lê Văn Căng (nông học); Trần Văn Thọ (kinh tế)… là minh chứng cho bản lĩnh và tài năng của người con xứ Quảng.

Vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, Quảng Nam là một trong những nơi mà các phong trào yêu nước lúc đương thời đã tạo nên những tiếng vang như: Phong trào Nghĩa Hội Cần Vương với các sĩ phu Trần Văn Dư, Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến; phong trào Duy Tân với các chí sĩ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Lê Cơ…; Duy Tân Hội và phong trào Đông Du với các chí sĩ Tiểu La Nguyễn Thành, Châu Thượng Văn, Đỗ Đăng Tuyển…; phong trào chống sưu, chống thuế năm 1908 khởi đầu tại Quảng Nam, sau đó lan nhanh đến 10 tỉnh Trung Kỳ từ Thanh Hóa đến Phú Yên. Quê hương của nhiều nhà chí sĩ đóng vai trò quan trọng trong cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang phục hội năm 1916 như: Thái Phiên, Trần Cao Vân, Đỗ Tự, Phan Thành Tài, Lê Đình Dương… Các phong trào yêu nước của nhân dân Quảng Nam vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX đều thất bại, nhưng đã hun đúc ý chí chống ngoại xâm của người dân xứ Quảng trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.

Quảng Nam là một trong những nơi sớm truyền bá tư tưởng cộng sản và thành lập Đảng bộ tỉnh (28/3/1930) chỉ hơn một tháng sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Trong cao trào Cách mạng tháng Tám năm 1945, Quảng Nam là một trong bốn địa phương giành chính quyền ở tỉnh lỵ sớm nhất trong cả nước. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Quảng Nam được coi là “Mảnh đất thánh của Khu 5” (vùng tự do của ta), là hậu phương quan trọng để chống thực dân Pháp; là nơi được Liên Khu ủy 5, Khu ủy 5, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đóng chân, xây dựng căn cứ để lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân Khu 5 kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Quảng Nam đã mở đầu phong trào đồng khởi với cuộc khởi nghĩa vũ trang tại làng Ông Tía (năm 1960) đến chiến thắng Bồ Bồ (năm 1954) chi viện rất lớn cho chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, Quảng Nam là vùng trọng điểm, nhân dân các dân tộc chịu nhiều đau thương, hy sinh, mất mát, nhưng vẫn sắc son, chung thủy, quyết tâm cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, tiêu biểu là chiến thắng Núi Thành “trận đầu đánh Mỹ”, đã được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên dương danh hiệu: “Quảng Nam trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ” ngày 17/9/1967. Cùng với đó là những chiến công vang dội như Điện Ngọc, Thủy Bồ, Mộc Bài, Hương An – Bà Rén, Xã Đốc, Cấm Dơi, Nông Sơn – Trung Phước, Thượng Đức…, tiến tới cùng miền Nam tổng tiến công nổi dậy góp phần làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau ngày nước nhà thống nhất, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tỉnh Quảng Nam bắt tay vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa:

n định tình hình, khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống của nhân dân (1975 – 1985): Với những hậu quả của chiến tranh tàn phá để lại, tình hình trong nước và thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, tác động không nhỏ đến địa phương… Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ và nhân dân tỉnh đã phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng của quê hương, nắm vững và vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng, từng bước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, khắc phục hậu quả chiến tranh, nỗ lực phấn đấu và giành được những thành tựu quan trọng trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn 1979 – 1985, trong điều kiện đất nước nói chung và tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng nói riêng gặp nhiều khó khăn, thách thứ; song, tỉnh đã thực hiện tốt việc cải tạo kinh tế, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đặc biệt, từ sau Đại hội Đảng bộ lần thứ XII, tỉnh đã mạnh dạn áp dụng nhiều cơ chế mới: xuất khẩu nông, hải sản để nhập xăng dầu cho nông ngư nghiệp; dành ruộng đất đào ao nuôi cá; vận dụng 2 giá lương thực; bù giá lương thực; mở rộng liên kết với các tỉnh bạn để trao đổi hàng hóa phục vụ nhu cầu trong tỉnh; khai thác 4 thế mạnh của địa phương là nông nghiệp, công nghiệp, rừng và biển từng bước phục hồi và đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Thực hiện công cuộc đổi mới do Đại hội VI của Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo (1986 – 1996): Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra, trong những năm 1986 – 1990, Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quyết định để cụ thể hóa các nhiệm vụ, chủ trương một cách toàn diện, từ kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh, đến xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Qua 5 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Quảng Nam – Đà Nẵng đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp: bước đầu sức sản xuất đã được giải phóng, việc bố trí lại cơ cấu, tổ chức bộ máy quản lý có hiệu quả hơn. Lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được đổi mới, cơ chế quản lý, sắp xếp lại sản xuất, phân công lại lao động, giải thể một số đơn vị quốc doanh làm ăn không hiệu quả… Lĩnh vực văn hóa – xã hội đã được quan tâm đầu tư đúng mức, nhất là ngành giáo dục và y tế; trong giáo dục, Tỉnh ủy đã chỉ đạo nhằm thực hiện đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chú trọng phát triển giáo dục miền núi; tập trung cho chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu, củng cố mạng lưới y tế cơ sở và phòng ngừa dịch bệnh… Giai đoạn 1991 – 1996, trong bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu tan rã đã tác động tiêu cực đến tình hình nước ta, nhất là về mặt tư tưởng, chính trị nhưng với bản lĩnh của một Đảng bộ đã có bề dày lịch sử, hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành, đứng vững trên lập trường chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở thực hiện và vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng vào thực tiễn địa phương, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân trong tỉnh vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách và đạt được những thành tựu quan trọng. Chính trị ổn định, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; tiềm năng các thành phần kinh tế được khơi dậy, một số lĩnh vực có sự phát triển khá, lực lượng sản xuất của xã hội được tăng cường; đời sống nhân dân được cải thiện; văn hóa – xã hội tiến bộ, theo hướng xây dựng con người mới năng động, hội nhập với khu vực và quốc tế, biết trân trọng quá khứ và truyền thống quê hương; quốc phòng an ninh được đảm bảo; vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường, hệ thống chính quyền các cấp từng bước được củng cố và vững mạnh; hoạt động đối ngoại được mở rộng; vai trò của Mặt trận, các đoàn thể chính trị được phát huy; tinh thần đoàn kết nhất trí trong Đảng bộ và niềm tin của nhân dân vào đường lối đổi mới được củng cố và tăng cường.

Xây dựng và phát triển từ khi tái lập tỉnh Quảng Nam (1997) đến nay: Ngày 01/01/1997, tỉnh Quảng Nam được tái lập. Lúc này, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tỉnh Quảng Nam đã phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, phát huy những thành tựu đã đạt được của những năm trước đó, đột phá vào những khâu là thế mạnh của địa phương, mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đề ra cơ chế thu hút đầu tư, đưa nền kinh tế – xã hội tăng trưởng với tốc độ nhanh. Bên cạnh đó, hệ thống chính trị được xây dựng, củng cố, nhất là công tác đào tạo, quy hoạch đội ngũ cán bộ ngày càng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, phát huy tinh thần đoàn kết, yêu nước, trên dưới một lòng, nêu cao quyết tâm, tập trung thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế – xã hội được đề ra trong nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, XVIII, XIX, XX, XXI và đang thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXII.

Trong đó, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXII (nhiệm kỳ 2020 – 2025) đã thống nhất nhận định: Năm năm qua, mặc dù gặp không ít khó khăn, thách thức, nhưng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quảng Nam đã phát huy truyền thống cách mạng anh hùng, đoàn kết một lòng, năng động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu hoàn thành khá toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI đã đề ra.

Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá; thực hiện 03 nhiệm vụ đột phá gắn với cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được nhiều kết quả tích cực. Quy mô nền kinh tế nằm trong nhóm dẫn đầu khu vực. Từ năm 2017, tỉnh đã tự chủ ngân sách và có đóng góp về Trung ương. Khu Kinh tế mở Chu Lai tiếp tục là điểm sáng, duy trì vai trò đầu tàu trong tăng trưởng, mà nổi bật là THACO Chu Lai – Trường Hải, với nhiều sản phẩm được xuất khẩu ra các nước trên thế giới, hướng đến hình thành Trung tâm cơ khí ô tô quốc gia.

Dịch vụ – du lịch đang từng bước khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, cùng với phát huy tốt các giá trị di sản văn hóa thế giới, các loại hình dịch vụ mới, dự án mới quy mô lớn, nhất là khu vực ven biển đã hình thành, tạo điểm nhấn như: Khu Nghỉ dưỡng Nam Hội An, Vinpearl Nam Hội An… Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội được đầu tư phát triển đồng bộ, tạo tiền đề quan trọng cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm tới, nhiều tuyến giao thông động lực đã được xây dựng như: Cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi, đường Võ Chí Công (nối sân bay Chu Lai đến thành phố Đà Nẵng), trục đường Điện Biên Phủ, cầu Cẩm Kim…

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) từ năm 2016 đến nay nằm trong nhóm 10 tỉnh, thành phố trong cả nước có điểm số cao nhất.

Bộ mặt đô thị, nông thôn có nhiều khởi sắc, xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả đáng mừng; văn hóa – xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị có nhiều chuyển biến tích cực, phương thức lãnh đạo không ngừng đổi mới. Niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, chính quyền ngày càng được nâng cao. Đó là nền tảng hết sức quan trọng để Quảng Nam tiếp tục phát triển nhanh và bền vững hơn trong thời gian tới.

Đạt được những thành quả to lớn trong nhiệm kỳ qua trước hết là quyết tâm phấn đấu, nỗ lực vươn lên không ngừng của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân trong tỉnh, cùng với sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ đầy trách nhiệm và hiệu quả của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành, Mặt trận, đoàn thể ở Trung ương; sự động viên, cổ vũ, hỗ trợ kịp thời của các địa phương bạn, nhất là thời điểm khó khăn trong đấu tranh với đại dịch Covid-19, trong phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai…

III. PHẤN ĐẤU ĐƯA QUẢNG NAM THÀNH TỈNH PHÁT TRIỂN KHÁ CỦA CẢ NƯỚC VÀO NĂM 2030

Phát huy truyền thống 550 năm Danh xưng Quảng Nam, toàn Đảng bộ, toàn dân và toàn quân tỉnh Quảng Nam quyết tâm đem tất cả tinh thần, sức lực, trí tuệ để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020-2025. Với mục tiêu tổng quát là: “Xây dựng Đảng bộ tỉnh trong sạch, vững mạnh, hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, bản sắc văn hóa và truyền thống cách mạng; cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động xã hội; huy động, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển kinh tế nhanh, bền vững; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân, bảo vệ tốt môi trường sinh thái; tăng cường quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; phấn đấu đưa Quảng Nam trở thành tỉnh phát triển khá của cả nước vào năm 2030”.

* Về các nhóm chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2020 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030: Nghị quyết Đại hội XXII đề ra 25 chỉ tiêu cụ thể trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, xây dựng Đảng, quốc phòng, an ninh; cụ thể như sau:

  1. Các chỉ tiêu về kinh tế

(1) Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân hằng năm từ 7,5 – 8%.

(2) GRDP bình quân đầu người đến năm 2025 từ 110 – 113 triệu đồng.

(3) Thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân hằng năm 9% (trong đó, thu nội địa tăng bình quân 10%/năm, thu xuất nhập khẩu tăng bình quân 4%/năm).

(4) Tỷ trọng các ngành trong GRDP đến năm 2025: Công nghiệp – xây dựng từ 35,8 – 36%; dịch vụ từ 37,2 – 37,3%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp từ 17,5 – 17,4%; nông, lâm nghiệp, thủy sản từ 9,5 – 9,3%. Đến năm 2030: Công nghiệp – xây dựng 35,5% (trong đó, công nghiệp 28,7%); dịch vụ 37%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp 19,3%; nông, lâm nghiệp, thủy sản 8,1%.

(5) Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2025 khoảng 37%; trong đó, phấn đấu xây dựng thành phố tỉnh lỵ Tam Kỳ cơ bản đạt các tiêu chí của đô thị loại I vào năm 2025, từng bước xây dựng đô thị sinh thái, thông minh và đạt tiêu chí đô thị loại I vào năm 2030. Đến năm 2030, tỷ lệ đô thị hóa khoảng 40%.

(6) Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa bình quân 10%/năm.

(7) Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GRDP đến năm 2025 trên 30%.

(8) Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân từ 6,8 – 7,3%/năm.

(9) Số lượt khách du lịch đến năm 2025 đạt khoảng 12 triệu lượt khách.

(10) Tỷ lệ thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa vào năm 2025 trên 99%.

  1. Các chỉ tiêu về xã hội

(11) Đến năm 2025, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 71 – 72%.

(12) Đến năm 2025, tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 70 – 75%; trong đó, tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35%; số lao động có việc làm tăng thêm 80.000 người.

(13) Phấn đấu đến cuối năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo của toàn tỉnh giảm còn 2,87% (trong đó, tỷ lệ hộ nghèo thuộc đối tượng bảo trợ xã hội khoảng 1,83%). Chỉ tiêu này sẽ được điều chỉnh theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2021 – 2025.

(14) Đến năm 2025, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 96%; có 12 bác sỹ/01 vạn dân; 43,6 giường bệnh/01 vạn dân; tỷ lệ trẻ em dưới 05 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi còn 20%.

(15) Đến năm 2025, có 70% trường mầm non, 95% trường tiểu học, 80% trường trung học cơ sở, 60% trường trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia.

(16) Đến năm 2025, có 160 xã, chiếm 80% số xã đạt chuẩn NTM (trong đó, 64 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 16 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu); không còn huyện không có xã đạt chuẩn NTM, không còn xã đạt dưới 15 tiêu chí; có 09 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn NTM (trong đó, có 02 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn NTM nâng cao và NTM kiểu mẫu); phấn đấu trở thành tỉnh đạt chuẩn NTM trước năm 2035.

(17) Thu nhập bình quân đầu người tính theo thu nhập thực tế đến năm 2025 từ 68 – 70 triệu đồng.

(18) Đến năm 2025, trên địa bàn tỉnh không còn nhà tạm bợ; đảm bảo tiêu chuẩn 03 cứng: nền cứng, khung cứng, mái cứng.

  1. Các chỉ tiêu về môi trường

(19) Đến năm 2025, tỷ lệ dân đô thị được sử dụng nước sạch đạt 90%.

(20) Đến năm 2025, 100% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tại các đô thị và 95% tại các điểm dân cư nông thôn được thu gom và xử lý; 95% chất thải rắn công nghiệp thông thường, 80% chất thải nguy hại, 100% chất thải rắn y tế được thu gom và xử lý.

(21) Đến năm 2025, 100% các khu công nghiệp đang hoạt động và 50% cụm công nghiệp có tỷ lệ lấp đầy trên 50% có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn về môi trường.

(22) Đến năm 2025, không phát sinh mới các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và 100% các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nằm trong danh mục được khắc phục ô nhiễm và đưa ra khỏi danh mục.

(23) Đến năm 2025, tỷ lệ che phủ rừng đạt 61%.

  1. Các chỉ tiêu về xây dựng Đảng; quốc phòng, an ninh

(24) Hằng năm, số đảng viên được kết nạp từ 1.500 đảng viên trở lên; số đảng viên được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt tỷ lệ từ 90% trở lên; số tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ từ 90% trở lên, không có tổ chức cơ sở đảng không hoàn thành nhiệm vụ.

(25) Công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ, giao quân hằng năm đạt 100% chỉ tiêu giao; 100% xã, phường, thị trấn vững mạnh về quốc phòng, an ninh, trên 70% xã, phường, thị trấn vững mạnh toàn diện.

Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu mà Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020 – 2025 đã đề ra, nhất là mục tiêu tăng trưởng GRDP bình quân từ 7,5 – 8% và phấn đấu đưa Quảng Nam trở thành tỉnh phát triển khá của cả nước vào năm 2030; Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Quảng Nam cần thực hiện tốt các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

(1) Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp. Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật trong Đảng. Tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác dân vận của Đảng. Đổi mới việc xây dựng và ban hành nghị quyết của Tỉnh ủy và các cấp ủy theo hướng xác định rõ vai trò chủ thể của Nhân dân, lấy việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho Nhân dân làm mục tiêu xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cũng như hoạch định và thực hiện chính sách.

(2) Đẩy mạnh thực hiện 03 nhiệm vụ đột phá chiến lược là: Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và phát triển đô thị; chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; cải thiện môi trường đầu tư, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. So với nhiệm kỳ trước thì nội hàm của các nhiệm vụ đột phá lần này đề ra rộng hơn, sâu hơn và được xác định là các nhiệm vụ đột phá chiến lược của tỉnh.

(3) Phát triển mạnh kinh tế biển và vùng đồng bằng ven biển của tỉnh; tập trung nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội vùng trung du, miền núi. Tích cực tham gia vào liên kết phát triển Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung nhằm khai thác tối đa lợi thế của từng địa phương, chia sẻ lợi ích lâu dài, chia sẻ hạ tầng chung, cùng nâng cao vị thế vùng. Phát triển Khu kinh tế mở Chu Lai giai đoạn mới đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, phấn đấu trở thành khu kinh tế động lực của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và cả nước.

(4) Cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ – du lịch. Trong dài hạn, từng bước chuyển mục tiêu ưu tiên từ tăng trưởng GRDP sang mục tiêu tăng thu nhập thực tế cho Nhân dân. Tập trung phát triển những ngành dịch vụ có hàm lượng trí tuệ và công nghệ cao. Chuyển ưu tiên từ thu hút số lượng du khách sang chất lượng du khách và doanh thu du lịch. Phát triển công nghiệp bền vững theo chiều sâu, ưu tiên những ngành có lợi thế để từng bước tạo ra những sản phẩm có thương hiệu và có sức cạnh tranh, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trong nông nghiệp, có cơ chế thu hút mạnh các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn, nhất là lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao để xây dựng liên kết theo chuỗi giá trị, tiêu thụ sản phẩm, lấy đầu ra cho sản phẩm làm tiền đề để tổ chức sản xuất, xem đây là khâu đột phá cho phát triển sản xuất nông nghiệp của tỉnh trong thời gian đến.

(5) Tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao mạnh mẽ khoa học và công nghệ, thông tin truyền thông.

(6) Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của người Quảng Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Khắc phục có hiệu quả tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống, ô nhiễm môi trường sống. Bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển các giá trị, nhân cách tốt đẹp của con người Quảng Nam; khơi dậy khát vọng vươn lên, cống hiến cho cộng đồng, đất nước. Quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống Nhân dân; đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng, chống thiên tai.

(7) Bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tăng cường công tác nội chính; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; cải cách tư pháp. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân.

(8) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của hệ thống chính quyền các cấp; đẩy mạnh cải cách hành chính; tinh giản biên chế và cơ cấu lại tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Cùng với các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trên, cần tập trung phát triển kinh tế tư nhân; đẩy mạnh thu hút, mời gọi nhà đầu tư có quy mô lớn, thương hiệu trên các lĩnh vực với công nghệ hiện đại, hàm lượng trí tuệ cao, thân thiện với môi trường, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, sản phẩm mang lợi thế cạnh tranh cao, có thể tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; đồng thời, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách tỉnh. Chúng ta kỳ vọng khi các dự án trọng điểm của tỉnh như: Sân bay Chu Lai, Cảng biển Chu Lai, Dự án khí – điện, các dự án Nam Hội An… đi vào hoạt động sẽ là nhân tố lớn quyết định cho mục tiêu tăng trưởng GRDP bình quân trong nhiệm kỳ tới.

  1. IV. MỘT SỐ KHẨU HIỆU TUYÊN TRUYỀN
  2. 1. Nhiệt liệt chào mừng kỷ niệm 550 năm Danh xưng Quảng Nam (1471 – 2021)!
  3. 2. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội!
  4. 3. Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa!
  5. 4. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng!
  6. 5. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tỉnh Quảng Nam quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXII!
  7. 6. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh!
  8. 7. Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại!
  9. 8. Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh!
  10. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
  11. 10. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!
  12. 11. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!

                                 BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY QUẢNG NAM

———————

* Tài liệu tham khảo:

– Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 50 năm thành lập Đặc khu ủy Quảng Đà (1967 – 2017), do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam phát hành tháng 10 năm 2017.

– Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2020) và mừng Xuân Canh Tý 2020; 90 năm Ngày thành lập Đảng bộ tỉnh (28/3/1930 – 28/3/2020) và 45 năm Ngày giải phóng tỉnh Quảng Nam (24/3/1975 – 24/3/2020).

– “Địa chí Quảng Nam – Đà Nẵng”, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam; Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng; Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội – 2010.

– Tỉnh ủy Quảng Nam: “Quảng Nam 40 năm xây dựng và trưởng thành”; tháng 3 năm 2015.

– “Tìm hiểu con người Xứ Quảng” của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam – 2004, Nguyên Ngọc chủ biên.

– “Báo cáo tổng kết lý luận – thực tiễn: Phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam qua 30 năm đổi mới ở tỉnh Quảng Nam”.

– “Minh quân Lê Thánh Tông và triều thần”, Lê Duy Anh sưu tầm và biên soạn; Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội – 2010.

– Tỉnh ủy Quảng Nam – Thành ủy Đà Nẵng (2006), Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam – Đà Nẵng (1930-1975), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

– Tỉnh ủy Quảng Nam – Thành ủy Đà Nẵng (2015), Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam – Đà Nẵng (1975-1996), NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.

– Kỷ yếu Hội thảo Danh xưng Quảng Nam do Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam phát hành tháng 9/2001.

– Nghị quyết số 01-NQ/ĐH, ngày 26/10/2020 Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020-2025.

————————————————————-

TƯ VẤN PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ TẠI ĐÂY

About admin

Tin mới

Hội nghị hiệp thương lần thứ ba đối với việc giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã được tổ chức khi nào?

Câu 1.      Hội nghị hiệp thương lần thứ ba đối với việc giới thiệu người …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *